Đau lưng kiểu viêm (IBP, Inflammatory Back Pain)

Rate this post

Đau lưng kiểu viêm (IBP)

Sự chậm trễ chẩn đoán từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của bệnh viêm khớp cột sống (VKCS) thể trục thường kéo dài nhiều năm (6-10 năm). Các dữ liệu tích lũy cho thấy việc điều trị sớm, ví dụ với các thuốc kháng TNFa, có thể giảm mực độ hoạt động bệnh và làm chậm tiến triển tạo cầu xương. Để hỗ trợ việc chẩn đoán đúng sớm, các chiến lược giúp nhận biết sớm bệnh VKCS thể trục (axial SpA) đã được nghiên cứu trên nhiều nhóm dân số. Một trong các chiến lược trên sử dụng đau lưng kiểu viêm (IBP, inflammatory back pain) như là một tiếu chí để chuyển tuyến bệnh nhân tới chuyên khoa khớp và phân loại bệnh VKCS thể trục.2,5

Đau lưng kiểu viêm ở nhóm bệnh viêm khớp cột sống thể trục

Đau lưng kiểu viêm (IBP, inflammatory back pain) là triệu chứng quan trọng của bệnh viêm khớp cột sống thể trục bao gồm VCSDK (AS) và VKCS thể trục chưa có tổn thương trên x-quang (nr-axial SpA). Ở một số nước phát triển, đau lưng kiểu viêm được gợi ý dùng để sàng lọc bệnh ở các đơn vị chăm sóc sức khoẻ cơ bản ban đầu. Tuy nhiên, gía trị của đau lưng kiểu viêm trong việc hỗ trợ sàng lọc, phân loại, chẩn đoán chưa được nhận biết rộng rãi.1-4

Đau lưng kiểu viêm (IBP) thường xuất hiện khi bệnh khởi phát. Đau lưng kiểu viêm mô tả các dấu hiệu bao gồm (1) xuất hiện ở tuổi trẻ, thường là trước 40 hoặc 45 tuổi; (2) đau thắt lưng âm ỉ kéo dài ít nhất 3 tháng, (3) cứng khớp lưng buổi sáng, (4) đau và cứng cải thiện khi luyện tập, (5) không có cải thiện nếu nghỉ ngơi, (6) thường xuyên thức dậy ban đêm hoặc gần sáng vì đau lưng, (7) xen kẽ các cơn đau mông.1,2

Các đặc điểm của đau lưng kiểu viêm (IBP) có thể xuất hiện ở bệnh nhân VCSDK hoặc các bệnh nhân có rối loạn đau mạn cột sống liên quan khác như (1) viêm khớp cột sống chưa phân loại, (2) viêm khớp phản ứng, (3) viêm ruột, (4) vảy nến.2

Các bộ tiêu chuẩn có sử dụng tiêu chí đau lưng kiểu viêm

Mặc dù khái niệm đau lưng kiểu viêm (IBP) thường được dùng nhất trong bệnh VCSDK và Viêm khớp cột sống, tuy nhiên một mình nó không đủ để chẩn đoán xác định cho tình trạng nào phía trên.

Có nhiều bộ tiêu chuẩn đã được phát triển để đánh giá đau lưng kiểu viêm hoặc đưa đau lưng kiểu viêm vào tiêu chuẩn khám lâm sàng kỹ hơn cho VCSDK (AS) và viêm khớp cột sống chưa có tổn thương x-quang (nr-axial SpA).2 Theo thứ tự thời gian, các bộ tiêu chuẩn này bao gồm: (1) Calin, (2) tiêu chí New York sửa đổi cho Viêm cột sống dính khớp, (3) Amor, (4) Tiêu chuẩn của nhóm nghiên cứu viêm khớp cột sống (SpA) Châu Âu; (5) Tiêu chuẩn Berlin; (6) Tiêu chuẩn ASAS 2009.3 Tuy đã có nhiều bộ tiêu chí được phát triển nhưng hiện nay vẫn có các nghiên cứu đang thực hiện để khảo sát mức độ chính xác của đau lưng kiểu viêm trong chẩn đoán bệnh viêm khớp cột sống.

Bảng 1: Bộ tiêu chí đau lưng kiểu viêm dùng để khảo sát đánh giá của các hiệp hội quốc tế về viêm khớp cột sống

Tiêu chuẩn Calin cho đau lưng kiểu viêm Tiêu chuẩn Berlin cho đau lưng kiểu viêm Tiêu chuẩn ASAS (iPAIN)
Tuổi khởi phát <40 Cứng khớp buổi sáng >30 phút Khởi phát đau âm ỉ
Đau kéo dài > 3 tháng Giảm đau lưng khi luyện tập, và đau tăng khi nghỉ ngơi Đau vào ban đêm (có cải thiện khi sắp thưucs dậy)
Đau âm ỉ Tỉnh ban đêm (thường là gần sáng) Tuổi khởi phát <40 Cứng khớp buổi sáng Xen kẽ cơn đau mông Giảm đau khi luyện tập Cải thiện khi vận động, luyện tập Không bớt đau khi nghỉ ngơi Cần có ít nhất 4/5 tiêu chí Độ nhạy 70% và độ đặc hiệu là 81% nếu đạt 2/4 tiêu chí Độ nhạy 77% và độ đặc hiệu 91.7% nếu có ít nhất 4/5 tiêu chí Sử dụng tiêu chí đau lưng kiểu viêm trong sàng lọc, phân loại và chẩn đoán

Vai trò của đau lưng kiểu viêm (IBP) trong chẩn đoán, phân loại, và sàng lọc bệnh viêm khớp cột sống (SpA) hiện nay đã được chú ý nhiều hơn. Đau lưng kiểu viêm là dấu hiệu lâm sàng quan trọng để sàng lọc bệnh nhân và là một trong các công cụ chẩn đoán viêm khớp cột sống thể trục. Tuy là dấu hiệu quan trọng trong sàng lọc bệnh, nhưng giá trị chẩn đoán của đau lưng kiểu viêm liên quan tới việc kết hợp với các tiêu chí chẩn đoán khác như: các dấu hiệu lâm sàng khác, chẩn đoán hình ảnh (x-quang, MRI…), tiền sử gia đình và gene.2,5

Ở một số nước như Mỹ, hệ thống chuyển tuyến bệnh nhân sử dụng đau lưng kiểu viêm như tiêu chí sàng lọc ở các đơn vị chăm sóc sức khoẻ ban đầu giúp cải thiện việc chẩn đoán chậm trễ của viêm khớp cột sống thể trục (axial SpA), và giúp giảm gánh nặng cho tuyến chuyên khoa. Trong nhiều nghiên cứu, khi đau lưng kiểu viêm được sử dụng để sàng lọc ban đầu, sẽ có 33-46% bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm khớp cột sống thể trục (axial SpA) khi chuyển tới chuyên khoa khớp.5

Tài liệu tham khảo
1. Poddubnyy D, Callhoff J, Spiller I, et al. Diagnostic accuracy of inflammatory back pain for axial spondyloarthritis in rheumatological care RMD Open 2018;4:e000825. doi: 10.1136/rmdopen-2018-000825
2. Weisman MH. Inflammatory back pain: the United States perspective. Rheum Dis Clin North Am. 2012;38(3):501-512. doi:10.1016/j.rdc.2012.09.002
3. Sieper, et al. (2009). New criteria for inflammatory back pain in patients with chronic back pain: A real patient exercise by experts from the Assessment of SpondyloArthritis international Society (ASAS). Annals of the rheumatic diseases. 68. 784-8. 10.1136/ard.2008.101501.
4. Akgul O, Ozgocmen S. Classification criteria for spondyloarthropathies. World J Orthop. 2011;2(12):107-115. doi:10.5312/wjo.v2.i12.07
5. Dubreuil M, Sieper J. Editorial: Inflammatory Back Pain and Axial Spondyloarthritis: Lessons for Clinical Practice and Epidemiologic Research. Arthritis Rheumatol. 2018;70(7):981-983. doi:10.1002/art.40462

Đánh giá:
Rate this post
1
Liên hệ với chúng tôi